Chào mừng bạn đến với diễn đàn Luật Học k33
Hãy đăng ký thành viên để trao đổi với chúng tôi.



Join the forum, it's quick and easy

Chào mừng bạn đến với diễn đàn Luật Học k33
Hãy đăng ký thành viên để trao đổi với chúng tôi.

Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Bài 6

Go down

Bài 6 Empty Bài 6

Bài gửi by ♥(¯`•▒»¦şǿċķ¦«▒• ´¯)♥ Mon Aug 02, 2010 11:43 am

quy che phap ly hanh chinh cua cac to chuc xa hoi
Bài 6 Blanprev Bài 6 Blantoc
Bài 6 Blannext Bài 6 Blanhome



Bài 6:

QUY
CHẾ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH


CỦA
CÁC TỔ CHỨC XÃ HÔI






  1. KHÁI NIỆM VÀ ÐẶC ÐIỂM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC
    TA



    1. Khái niệm.


    2. Ðặc điểm của các tổ chức xã
      hội.





  2. CÁC LOẠI TỔ CHỨC XÃ HỘI.



    1. Các tổ chức chính trị xã hội.



    2. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp.



    3. Các tổ chức tự quản.


    4. Các hội quần chúng.




  3. SỰ ÐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT ÐỐI VỚI HOẠT ÐỘNG CỦA
    CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI.



  4. NHỮNG HÌNH THỨC QUAN HỆ GIỮA CÁC TỔ CHỨC XÃ VÀ
    CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC.



    1. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình thiết lập
      các cơ quan Nhà nước.



    2. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình xây dựng
      pháp luật.



    3. Sự hợp tác trong lĩnh vực thực hiện pháp
      luật.



    4. Quan hệ kiểm tra lẫn nhau, mối quan hệ này thể
      hiện ở hai chiều.





  5. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ
    HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC.


_______________________________________________________________________________________________

I. KHÁI NIỆM VÀ ÐẶC
ÐIỂM CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

1. Khái niệm

TOP
Tổ chức xã hội là những bộ phận cấu
thành của hệ thống chính trị nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự
nguyện, tự quản của người lao động được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay
theo các quy định của nhà nước, nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý
nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên.

Hoạt động quản lý nhà nước được
tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà nước mà còn được hình thành bởi các tổ
chức xã hội và cá nhân. Là một bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã
hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội rất đa dạng về hình thức, tên
gọi, chủng loại như: Ðảng cộng Sản Việt Nam, Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt nam, Trọng tài
kinh tế, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội Luật gia...

Trong đời sống xã hội, các tổ chức
xã hội là chổ dựa của nhà nước nhằm tuyên truyền, giáo dục quần chúng thực hiện
các nhiệm vụ quản lý. Các tổ chức xã hội có những đặc điểm phân biệt với các cơ
quan nhà nước.

2. Ðặc điểm của các
tổ chức xã hội

TOP
Mỗi tổ chức xã hội đều có những
hoạt động mang tính chất đặc thù, phản ánh vị trí, vai trò của nó trong hệ thống
chính trị. Tuy vậy, các tổ chức xã hội cũng có những đặc điểm chung nhất định,
đó là căn cứ để phân biệt các tổ chức xã hội với các cơ quan nhà nước, các đơn
vị kinh tế. Ðó là các đặc điểm sau:

1. Các tổ chức xã hội
là hình thức tổ chức tự nguyện của người lao động vì những mục đích nhất
định. Ðó là những tổ chức tập hợp những thành viên của mình dựa vào những đặc
điểm nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính ...

+ Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ
nét trong việc nhân dân được quyền tự do lựa chọn và quyết định tham gia hay
không tham gia vào một tổ chức xã hội nào đó. Không ai có quyền ép buộc một
người nào đó phải tham gia hay không được tham gia vào các tổ chức xã hội nhất
định. Tuy nhiên yếu tố tự nguyện ở đây không đồng nghĩa với tự do vô tổ chức mà
mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối với người muốn trở
thành thành viên của tổ chức xã hội đó.

+ Yếu tố tự nguyện được hiểu là
việc kết nạp hay không khai trừ các thành viên của tổ chức hoàn toàn do tổ chức
xã hội và những thành viên của tổ chức đó quyết định chứ nhà nước không can
thiệp cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước để chi phối hoạt động đó.

2. Mỗi tổ chức xã hội
là tập hợp những thành viên có cùng chung một dấu hiệu, đặc điểm. Họ liên kết
lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ những lợi ích chính đáng của
họ.

Ví dụ: Cùng chung một mục đích
như Ðảng Cộng sản Việt Nam;

Cùng chung một giai cấp như
Hội Nông dân Việt Nam;

Cùng chung một nghề nghiệp
như Hội Luật Gia;

Cùng chung một giới tính như
Hội Phụ nữ...

3. Khi tham gia vào
quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội nhân danh tổ chức mình
chứ không phải nhân danh nhà nước. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt do pháp
luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động
nhân danh nhà nước. Quyết định
của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của mình, không có
hiệu lực đối với những người ngoài tổ chức đó, trừ một số trường hợp do qui định
của pháp luật.

4. Các tổ chức xã
hội có thể là chủ thể của quản lý nhà nước nhưng không phải là chủ thể mặc
nhiên.

+ Các tổ chức xã hội khi tham gia
vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước không được quyền nhân danh nhà nước nếu
không được pháp luật quy định vì tổ chức xã hội không phải là một thành phần
trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của
các tổ chức xã hội bằng việc quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các tổ
chức xã hội. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ này, các tổ chức xã hội nhân
danh tổ chức mình chứ không nhân danh nhà nước, không sử dụng quyền lực nhà
nước.

+ Tuy nhiên, trong một số trường
hợp do pháp luật quy định, nhà nước trao quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép
các tổ chức này được thay mặt nhà nước quản lý một số công việc nhất định, lúc
này tổ chức xã hội mới được phép nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước,
các quyết định do tổ chức xã hội đưa ra mới mang tính chất quyền lực nhà nước,
có tính chất bắt buộc đối với những đối tượng có liên quan.

Ví dụ: tổ chức Công đoàn được
nhà nước cho phép thực hiện hoạt động kiểm
tra việc chấp hành
pháp luật về bảo hộ lao động, hợp đồng lao động, chế độ tuyển dụng, cho thôi
việc, tiền lương...

5. Các tổ chức xã hội
được tổ chức và hoạt động theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây
dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước.

+ Phần lớn các tổ chức xã hội đều
có điều lệ hoạt động như Ðảng Cộng sản Việt Nam, Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam...điều lệ đó
được các thành viên trong tổ chức soạn thảo, được nhà nước phê chuẩn, thừa nhận
một cách chính thức. Tuy nhiên, có một số tổ chức xã hội không có điều lệ hoạt
động riêng mà hoạt động theo quy định của nhà nước như Ban thanh tra nhân dân,
tổ hòa giải. Ngoài ra, có một số tổ chức vừa hoạt động theo điều lệ, vừa hoạt
động theo quy định của pháp luật như tổ chức Công đoàn.

+ Cho dù tổ chức xã hội hoạt động
theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước thì những hoạt động nội bộ của các
tổ chức xã hội vẫn mang tính chất tự quản. Nhà nước không trực tiếp can thiệp
vào công việc nội bộ của các tổ chức này cũng như không sử dụng quyền lực nhà
nước để sắp xếp người lao động hay cách chức người lao động trong tổ chức xã hội
đó.

6. Mối quan hệ giữa
các thành viên trong tổ chức xã hội là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải
là nguyên tắc " quyền lực - phục tùng" như trong các cơ quan nhà nước.


+ Trong quá trình hoạt động, tổ
chức xã hội tự xử lý và giải quyết các công việc nội bộ của tổ chức mình. Nhà
nước sẽ không can thiệp vào nếu hoạt động của các tổ chức xã hội không trái pháp
luật.

+ Hoạt động của chúng trên nguyên
tắc giáo dục thuyết phục và các biện pháp tác động xã hội, chứ không mang tính
cưỡng chế nhà nước. Các tổ chức xã hội có thể áp dụng các biện pháp kỷ luật như
cảnh cáo, khiển trách, cách chức, khai trừ ra khỏi tổ chức đối với những thành
viên vi phạm điều lệ. Các tổ chức xã hội không được quyền sử dụng quyền lực nhà
nước để truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với thành viên của tổ chức mình.

7. Các tổ chức xã hội
hoạt động có mục đích chung là giáo dục ý thức pháp luật cho các thành viên
để họ sống và làm việc theo pháp luật. Ðồng thời, hoạt động của các tổ chức xã
hội còn nhằm đến mục đích là bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của các
thành viên trong tổ chức. Khi có những hành vi xâm hại tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các thành viên trong tổ chức hay những người lao động khác thì các tổ
chức xã hội có thể tạo ra dư luận xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi
phạm đó, đồng thời yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi phục
lại những lợi ích mà các thành viên trong tổ chức hay người lao động đã bị xâm
hại.

Ngoài ra, cũng có một số tổ chức xã
hội được thành lập và hoạt động nhằm thỏa mãn các nhu cầu về văn hóa- xã hội của
các thành viên hoặc để tăng gia sản xuất. Các tổ chức xã hội cũng có thể làm
kinh tế từ những hoạt động văn hóa thể thao, kinh doanh nhưng đây không phải là
mục đích hoạt động chính của các tổ chức này.

II. CÁC LOẠI TỔ CHỨC
XÃ HỘI

Theo nguyên tắc hình thức tổ chức
và hoạt động, các tổ chức xã hội được chia thành các tổ chức chính trị xã hội,
các tổ chức tự quản, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức quần
chúng.

1. Các tổ chức
chính trị xã hội

TOP
Ðây là các tổ chức tự nguyện được
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức từ
trung ương đến cơ sở. Các tổ chức xã hội này có điều lệ hoạt động do hội nghị
toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua. Bao gồm các tổ chức
như: Ðảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
của Mặt trận tổ quốc Việt Nam.

a. Ðảng Cộng sản Việt
Nam

Là một tổ chức xã hội hoạt động có
mục đích chính trị, có cương lĩnh, đường lối và đóng vai trò quan trọng trong hệ
thống chính trị, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, là nhân tố bảo đảm
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trước đây ở nước ta tồn tại ba đảng
phái chính trị là đảng dân chủ, đảng xã hội và đảng lao động Việt Nam (nay là
Ðảng Cộng sản Việt Nam). Kể từ khi thành lập, Ðảng dân chủ và Ðảng
xã hội đã đóng vai trò quan trọng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống
nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tháng 10 năm 1988, Ðảng xã
hội và Ðảng dân chủ tự giải tán. Hiện nay, nước ta chỉ tồn tại một Ðảng chính
trị là Ðảng Cộng sản Việt Nam mà vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với nhà nước và
xã hội đã được ghi nhận tại điều 4- Hiến pháp 1992.

Các đường lối, chủ trương chính
sách của Ðảng là kim chỉ nam cho hoạt động nhà nước và xã hội. Nhiều chính sách
của Ðảng thể chế hoá thành pháp luật. Tuy lãnh đạo hệ thống chính trị, nhưng
Ðảng không can thiệp trực tiếp vào công việc nhà nước, mà định ra phương hướng
hoạt động và kiểm tra việc thực hiện đường lối của mình trong bộ máy nhà nước.
Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

b. Mặt trận tổ quốc Việt
Nam

Mặt trận tổ quốc Việt Nam được
thành lập theo cơ chế bầu cử dân chủ được phân cấp để hoạt động trong phạm vi
toàn quốc.

Thành viên của mặt trận tổ quốc
Việt Nam gồm các tổ chức: Ðảng Cộng sản Việt Nam, Liên đoàn Lao động Việt Nam,
Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông
dân Việt Nam. Các tổ chức này có cơ cấu hoàn chỉnh và đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống chính trị. Hoạt động của chúng ảnh hưởng rất lớn đến các quyết
định quản lý nhà nước.

Mặt trận tổ quốc Việt Nam được
thành lập nhằm phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí
về chính trị đối với nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân
dân.

c. Công đoàn

¨ Khái
niệm và các chức năng chính

Là tổ chức chính trị - xã hội của
giai cấp công nhân và người lao động, đại diện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của người lao động.

+ Có trách nhiệm tham gia với nhà
nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất tinh
thần của người lao động.

+ Thực hiện chức năng động viên
người lao động thực hiện nghĩa vụ công dân.

+ Kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật về lao động, bảo
hiểm xã hội.

¨
cấu tổ chức

Về cơ cấu, công đoàn có tổ chức
chặt chẽ và được phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Công đoàn được
tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Cơ quan lãnh đạo các cấp
của công đoàn đều do bầu cử lập ra và cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp là
Ðại hội công đoàn cấp đó. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo là Ban chấp hành
công đoàn do đại hội bầu ra.

Công đoàn Việt Nam tổ chức theo
ngành nghề và địa phương gồm bốn cấp cơ bản:

- Tổng liên đoàn lao động Việt
Nam;

- Liên đoàn lao động tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành nghề toàn quốc;

- Công đoàn ngành nghề địa phương,
Liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và cấp tương
đương;

- Công đoàn cơ sở và nghiệp
đoàn.

d. Ðoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh

Là tổ chức xã hội của thanh niên
được hình thành nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành
mạnh, qua đó giáo dục ý thức pháp luật đối với thanh niên.

Ðoàn thanh niên cũng là nơi đào tạo
ra các viên chức, cán bộ có phẩm chất trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ những chức
vụ trọng trách trong các tổ chức chính trị xã hội, ví dụ như Ðảng, công đoàn.

Các tổ chức của Ðoàn thanh niên
hình thành trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết tất cả các tổ chức, cơ quan,
đơn vị từ trung ương đến địa phương.

e. Hội liên hiệp
Phụ nữ

Là tổ chức xã hội rộng lớn của giới
nữ nhằm động viên thu hút các tầng lớp phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội,
tham gia giải quyết các công việc của nhà nước. Mặt khác, Hội phụ nữ còn là tổ
chức đại diện cho tất cả các phụ nữ Việt nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của phụ nữ, chống phân biệt đối xử, bảo vệ quyền bình đẳng nam nữ.

g. Hội liên hiệp nông dân
Việt Nam

Là một tổ chức đại diện của giai
cấp nông dân Việt Nam, được thành lập nhằm động viện, tổ chức nông dân lao động
trong cả nước hăng hái tham gia sản xuất, giáo dục tinh thần yêu nước. Mặt khác,
hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện
vọng của giai cấp nông dân Việt Nam- một bộ phân dân cư lớn nhất ở nước ta.

Ngoài ra, nước ta còn có các cơ
quan xã hội được hình thành theo sáng kiến của nhà nước và không có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ, hoạt động dưới sự lãnh đạo trực tiếp của nhà nước.

Ví dụ: Uỷ ban đoàn kết á-Phi, Uớy
ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt nam...

2. Các tổ chức xã
hội nghề nghiệp

TOP
Là loại hình tổ chức xã hội do nhà
nước sáng kiến thành lập được hình thành theo quy định của nhà nước. Hoạt động
của các tổ chức xã hội nghề nghiệp được đặt dưới sự quản lý của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, tổ chức xã hội nghề nghiệp cũng là tổ chức hoạt
động mang tính chất tự quản, cơ cấu tổ chức nội bộ của từng tổ chức do tổ chức
đó quyết định hoạt động không mang tính quyền lực nhà nước, đảm bảo nguyên tắc
tự nguyện khi hình thành tổ chức.

Tổ chức xã hội nghề nghiệp bao gồm:
Ðoàn Luật sư, Trọng tài kinh tế,

a. Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam

Trọng tài kinh tế: Là tổ chức xã
hội nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế, các
tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu, việc thành
lập, giải thể công ty.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam: là một tổ chức xã hội nghề nghiệp bao gồm các thành viên thuộc các thành
phần kinh tế, hoạt động theo điều lệ của tổ chức được chính phủ chuẩn y, được
quyền xét xử các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương đã được
ký kết giữa tổ chức kinh tế Việt Nam với phía nước ngoài bao gồm cả thể nhân và
pháp nhân; các tranh chấp trong lĩnh vực giao thông vận tải quốc tế như thuê
tàu, vận chuyển hàng hóa quốc tế, cứu hộ tàu biển... giữa một bên hay các bên
đương sự là người nước ngoài hoặc tổ chức kinh doanh nước ngoài.

b. Ðoàn Luật sư:

Là hội nghề nghiệp của các luật sư
được thành lập nhằm mục đích tập hợp, hướng dẫn, giám sát và bênh vực quyền lợi
cho các luật sư, duy trì uy tín nghề nghiệp và nâng cao hiệu quả hành nghề của
các luật sư thành viên. Ðoàn luật sư có tư cách pháp nhân, có tài khoản và con
dấu riêng, hoạt động bằng kinh phí do các luật sư đóng góp và bằng các nguồn thu
hợp pháp khác.

c. Các tổ chức
kinh tế tự nguyện: (theo tính chất sản xuất)

Là những tổ chức hình thành nhằm
thu hút người lao động vào việc giải quyết các nhiệm vụ sản xuất. Ðó là các hợp
tác xã nông, lâm, ngư nghiệp.

3. Các tổ chức tự
quản

Là các tổ chức của nhân dân lao
động được thành lập theo sáng kiến của nhà nước, hoạt động theo quy định của nhà
nước. Các tổ chức này được thành lập theo nguyên tắc tự quản trong một phạm vi
nhất định đối với các công việc mà nhà nước không trực tiếp quản lý.

Các tổ chức tự quản thường được
thành lập theo chế độ bầu cử dân chủ, không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, giữa các
tổ chức cùng loại không có mối quan hệ đoàn thể. Hoạt động của tổ chức tự quản
được đặt dưới sự quản lý trực tiếp của các cơ quan nhà nước hữu quan.

4. Các hội quần
chúng

TOP
Là các tổ chức xã hội được thành
lập theo những dấu hiệu nghề nghiệp, sở thích hoặc các dấu hiệu khác như: kinh
tế, văn hoá, khoa học-kỹ thuật, thể thao và quốc phòng.

Các tổ chức xã hội loại này rất đa
dạng, phong phú, có số lượng nhiều nhất so với các tổ chức xã hội khác. ở nước
ta, số lượng các hội quần chúng đang có xu hướng phát triển, hiện nay có khoảng
120 hội quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước, khoảng 300 hội hoạt động ở
các tỉnh, thành phố, địa phương.

Ðiều lệ hoạt động của hội quần
chúng do các tổ chức dự thảo và quyết định, khi đăng ký thành lập hội phải báo
cáo điều lệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập để các cơ quan
này chuẩn y.

III. SỰ ÐIỀU CHỈNH
PHÁP LUẬT ÐỐI VỚI HOẠT ÐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI

TOP
Ðịa vị pháp lý của các
tổ chức xã hội được quy định trong Hiến pháp, các luật, những văn bản dưới luật.
Những vấn đề cơ bản được pháp luật điều chỉnh gồm lập hội, mối quan hệ giữa Ðảng
và Nhà nước, giữa các tổ chức xã hội và Nhà nước, trình tự giải thể hoạt động
của các tổ chức xã hội, các hình thức khen thưởng... Nhưng pháp luật không điều
chỉnh mọi hoạt động của các tổ chức xã hội.

Việc lập hội được tiến
hành theo trình tự :

- Những
hội quần chúng hoạt động trên phạm vi cả nước phải được Thủ tướng Chính phủ cấp
giấy phép.

- Những
hội quần chúng hoạt động ở Tỉnh, Thành phố và cấp tương đương do Chủ tịch Tỉnh,
Thành phố và cấp tương đương cấp giấy phép và phải báo cho Thủ tướng Chính phủ
biết.

- Những
tổ chức quần chúng hoạt động có tính chất tương thế, phúc lợi ở xã, phường,
thôn, ấp như hội bảo thọ, hội bảo trợ học đường do Chủ tịch ủy ban nhân dân xã,
phường cho phép, nhưng phải báo cáo cho Chủ tịch huyện, quận biết.

Các tổ chức xã hội tự
thảo và quyết định điều lệ hoạt động của mình. Song khi đăng ký lập hội phải báo
cáo điều lệ với cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xét và cho phép hoạt
động. Nếu sửa lại điều lệ cũng phải báo cáo cơ quan Nhà nước đã cho phép thành
lập. Nguyên tắc này được áp dụng đối với các hội tổ chức quần chúng theo tính
chất nghề nghiệp, không áp dụng đối với tổ chức xã hội là thành viên của ủy ban
mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Những hoạt động tổ
chức nội bộ như bầu cử ban lãnh đạo, chi phí tài chính, phát động các phong trào
thi đua, sắp xếp cơ cấu do các tổ chức xã hội quyết định theo quy định của điều
lệ hoặc quyết định của Ðại hội đại biểu.

Các tổ chức xã hội có
thể chấm dứt hoạt động khi có các cơ sở sau :

Thứ nhất: Ðã hoàn
thành sứ mệnh lịch sử và tuyên bố tự giải thể. Pháp luật qui định sau khi tuyên
bố tự giải thể, chậm nhất một tháng phải nộp lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cấp giấy phép toàn bộ hồ sơ, con dấu, tài liệu thanh quyết toán tài sản chuyển
giao theo hướng dẫn của cơ quan tài chính Nhà nước.

Thứ hai: Hoạt động của
tổ chức đó vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệ, uy tín của tổ chức đó một cách
nghiêm trọng. Trong ba trường hợp nêu trên, cơ quan có thẩm quyền cho pháp hoạt
động có thể thu hồi giấy phép hoạt động.

Thứ ba: Tổ chức xã hội
tự ý không hoạt động mà không có lý do chính đáng. Trong trường hợp này, cơ quan
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động ra quyết định giải thể tổ chức đó.

Quyền hạn và nghĩa vụ
của các tổ chức xã hội không giống nhau. Nó thể hiện ở chỗ một số tổ chức xã hội
được quyền trình dự án luật (đó là những thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam), hoặc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ, hoặc của các cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương. Nhưng ngược lại, một số hội quần chúng không
có khả năng đó. Pháp luật quy định quyền hạn không có khả năng đó. Phát luật qui
định quyền hạn khá rộng rãi cho các tổ chức công đoàn trong việc giải quyết các
tranh chấp lao động, bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, bảo vệ các quyền, tự do,
hợp pháp của công dân. Năng lực pháp lý - hành chính của tổ chức công đoàn được
thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong Luật Công Ðoàn (thông qua ngày
30/06/1990).

Trong mối quan hệ giữa
Ðảng và Nhà nước đặc trưng là quan hệ lãnh đạo. Ðường lối của Ðảng được thể chế
thành pháp luật, các cơ quan Ðảng cao nhất lựa chọn người vào các chức vụ chủ
chốt của Nhà nước. Kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện đường lối của mình.

Các tổ chức xã hội
không chỉ khác nhau về năng lực pháp lý - hành chính, mà còn khác nhau ở các sự
tác động của Nhà nước đối với chúng. Nhà nước không trực tiếp lãnh đạo, can
thiệp vào các đoàn thể xã hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam mà chỉ
quy định những quyền hạn, nghĩa vụ pháp lý. Ðối với cơ quan xã hội (Hội bảo vệ
hoà bình thế giới, Hội đoàn kết á Phi...), cử cán bộ lãnh đạo Nhà nước sang
chuyên trách hoặc bán chuyên trách ở các tổ chức xã hội, định hướng
hoạt động và chỉ đạo các hoạt động cụ thể tùy theo tình hình xã hội.

Sự điều chỉnh pháp lý
đối với hoạt động của các tổ chức xã hội không giới hạn ở việc quy định các
quyền và nghĩa vụ, mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội phát huy được
tính tích cực chính trị tham gia vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội.

Nhà nước quy định
trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, người có chức vụ (trách nhiệm kỷ luật,
hành chính, hình sự) nếu có những biện pháp, hành vi cản trở các tổ chức xã hội
và nhân viên các tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ theo điều lệ của họ.

Ðối với những hội quần
chúng ở các địa phương, các cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ tạo điều kiện để các
hội đó nắm được chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước phối hợp cùng với
hội động viên các hội viên hăng hái thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp
luật và thu thập ý kiến hội đóng góp với cơ quan Nhà nước trong quá trình xây
dựng và thực hiện chính sách, nhiệm vụ công tác của ngành và địa phương.

IV. NHỮNG HÌNH THỨC
QUAN HỆ GIỮA CÁC TỔ CHỨC XÃ VÀ CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC.

Ðặc trưng cơ bản của
mối quan hệ tương hỗ giữa các tổ chức xã hội và các cơ quan Nhà nước là sự hợp
tác. Ðiều này xuất phát từ sự thống nhất mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nâng cao tính tích cực xã hội của công dân, bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của
công dân. Dưới đây là những hình thức hợp tác cụ thể.

1. Sự hợp tác phát
sinh trong quá trình thiết lập các cơ quan Nhà nước :

TOP
Ðảng Cộng Sản Việt Nam
đóng vai trò quan trọng trong việc đề cử các đảng viên ưu tú vào các chức vụ
quan trọng của bộ máy quản lý Nhà nước.

Các tổ chức xã hội như
Công đoàn, Ðoàn thanh niên cũng có quyền giới thiệu thành viên của mình ứng cử
các chức vụ trong bộ máy Nhà nước. Ðồng thời, trên thực tế việc bổ nhiệm, nâng
bậc lương, thăng chức, cần có ý kiến của các tổ chức xã hội trước khi thủ trưởng
đơn vị ra quyết định.

Cùng với quá trình dân
chủ hóa xã hội, vai trò của các tổ chức xã hội trong việc thiết lập cơ quan Nhà
nước ngày càng cao, sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn, không chỉ bao gồm đưa các
thành viên của tổ chức xã hội vào cơ quan Nhà nước mà cả sự đánh giá, góp ý kiến
hay đề nghị xử lý các cán bộ Nhà nước vi phạm pháp luật, cản trở hoạt động của
các tổ chức xã hội.

2. Sự hợp tác phát
sinh trong quá trình xây dựng pháp luật :

TOP
Thực tế quản lý Nhà
nước đã áp dụng các hình thức ra văn bản pháp luật liên tịch giưa cơ quan quản
lý Nhà nước với cơ quan Ðảng, với tổ chức công đoàn liên quan đến bảo vệ lợi ích
của người lao động. Các cơ quan lãnh đạo của các tổ chức xã hội cũng tham gia
trực tiếp vào việc dự thảo các quyết định quản lý, văn bản pháp luật. Trong
nhiều trường hợp, chính sách các tổ chức xã hội chủ động đưa ra
những kiến nghị đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành những quyết
định, nghị định, và những văn bản khác của Chính phủ.

Ðối với những quyết
định quản lý Nhà nước liên quan đến lợi ích và hoạt động của tổ chức xã hội thì
cần phải tham khảo ý kiến của các tổ chức xã hội. Ví dụ : Công đoàn tham gia với
cơ quan Nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ vì lao động, tiền lương,
bảo hộ lao động và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền,
nghĩa vụ và lợi ích của người lao động (phần 2 điều 5 Luật Công đoàn).

Pháp luật, nước ta quy
định nhiều tổ chức xã hội có quyền trình dự án luật.

Song song với điều này
các tổ chức đó có thể đưa ra dự thảo của mình và tham gia tích cực vào quá trình
thảo luận các dự án luật, các dự án văn bản khác.

3. Sự hợp tác trong
lĩnh vực thực hiện pháp luật :

Trên thực tế, các cơ
quan quản lý Nhà nước thu hút các tổ chức xã hội để thảo luận và tìm ra các biện
pháp tối ưu trong việc giải quyết các nhiệm vụ quản lý cũng như thi hành pháp
luật. Các tổ chức xã hội như Công đoàn và Ðoàn thanh niên đóng vai trò to lớn
trong việc phát động các phong trào quần chúng, tuyên truyền trong nội bộ tổ
chức đường lối, pháp luật của Nhà nước, tổ chức các buổi dạ hội, hội thảo, trao
đổi khoa học về sinh đẻ có kế hoạch, bảo vệ môi trường và các biện pháp nhằm
thiết lập trật tự, kỷ luật. Trong các bộ, ngành luôn luôn có sự hợp tác thường
xuyên giữa thủ trưởng đơn vị với lãnh đạo các tổ chức xã hội để tìm ra các biện
pháp thực hiện tốt các quyết định quản lý, pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức
xã hội trong Mặt trận tổ quốc Việt Nam được tham dự các kỳ họp của Chính phủ khi
cần thiết.

4. Quan hệ kiểm tra
lẫn nhau, mối quan hệ này thể hiện ở hai chiều :

TOP
- Các tổ
chức xã hội kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước.

- Các cơ
quan Nhà nước kiểm tra sự hợp pháp trong việc thành lập, hoạt động của các tổ
chức xã hội.

Trong các quan hệ kiểm
tra, các cơ quan Ðảng có vai trò quan trọng trong kiểm tra việc thực hiện đường
lối của Ðảng trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước cũng như kiểm tra các Ðảng
viên làm việc trong các cơ quan đó.

Vai trò của công đoàn
trong việc kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước được thể hiện trong các
lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo vệ các quyền lao động của công nhân, viên chức,
tính hợp pháp trong việc xử lý kỷ luật công nhân, phân hối nhà ở, quỹ phúc lợi.
Ðặc biệt, các tổ chức công đoàn có quyền yêu cầu những cơ quan Nhà nước và người
có chức vụ tạm ngừng hoạt động không an toàn lao động nếu trong quá trình kiểm
tra xét thấy nguy hiểm cho tính mạng công nhân.

Các tổ chức xã hội
khác cũng thực hiện kiểm tra hoạt động của các cơ quan Nhà nước trong phạm vi
liên quan đến tổ chức mình. Ví dụ: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam kiểm tra chế
độ, chính sách đối với phụ nữ trong các xí nghiệp, cơ sở, trường học và đưa ra
kiến nghị với thủ trưởng đơn vị.

Các tổ chức thanh tra
nhân dân ở cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng trong kiểm tra việc thực hiện
pháp luật của những người có chức vụ và nhân viên Nhà nước, chống các biểu hiện
quan liêu, hống hách, cửa quyền. Các tổ chức này cùng với Thanh tra Nhà nước
giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo của công dân.

Trong một số trường
hợp, các cơ quan Nhà nước cùng với tổ chức xã hội tiến hành kiểm tra hoạt động
của cơ quan Nhà nước. Ðiều này giúp cho các cơ quan Nhà nước khắc phục ngay
những thiếu sót của mình, góp phần làm trong sạch, lành mạnh hóa bộ máy Nhà
nước.

Các cơ quan Nhà nước
cũng kiểm tra tính hợp pháp trong hoạt động của các tổ chức xã hội. Theo pháp
luật, cơ quan nào có thẩm quyền cho phép tổ chức xã hội hoạt động thì kiểm tra
tính hợp pháp của chúng. Song, không can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ
chức xã hội.

Ngoài ra, mối quan hệ
giữa các tổ chức xã hội với các cơ quan quản lý Nhà nước còn thể hiện ở
chỗ.

- Những
người đứng đầu có các đoàn thể nhân dân được mời dự các phiên họp của các cơ
quan Nhà nước khi bàn các vấn đề có liên quan.

- Các cơ
quan Nhà nước có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân tổ chức, động viên nhân dân tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, tổ chức, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật
của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ
và viên chức Nhà nước.

- Các cơ
quan Nhà nước thông báo tình hình mọi mặt của cả nước, hay địa phương cho Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, có trách nhiệm giải quyết và trả lời các
kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.

Như vậy, sự phối hợp
của các cơ quan Nhà nước với các tổ chức xã hội rất đa dạng, phong phú. Phát huy
tốt các mối quan hệ giữa chúng sẽ tạo ra động lực thúc đẩy quá trình dân chủ hóa
xã hội, dân chủ hóa trong quản lý Nhà nước.

V. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

TOP
Tổng thể các quyền và nghĩa vụ do
nhà nước quy định cho các tổ chức xã hội trong quản lý hành chính nhà nước tạo
thành quy chế pháp lý hành chính của các tổ chức xã hội.

Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức
xã hội được nhà nước quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như hiến
pháp, luật công đoàn, pháp lệnh tổ chức luật sư, pháp lệnh thanh tra... các
quyền và nghĩa vụ này phát sinh bên ngoài tổ chức, xác định địa vị pháp lý cũng
như năng lực chủ thể để các tổ chức xã hội tham gia vào quản lý nhà nước, quản
lý xã hội. Những quyền và nghĩa vụ được quy định trong quy chế pháp lý hành
chính của chúng là những quyền và nghĩa vụ mang tính pháp lý khác với các quyền
và nghĩa vụ được quy định trong điều lệ của tổ chức xã hội.

Các tổ chức xã hội khác nhau thì có
quy chế pháp lý hành chính khác nhau. Sự khác biệt về quy chế pháp lý hành chính
của các tổ chức xã hội bắt nguồn từ sự khác biệt về vị trí vai trò và phạm vi
hoạt động của các tổ chức xã hội. Tuy vậy, các tổ chức xã hội (các tổ chức tự
nguyện) đều có những quyền và nghĩa vụ sau:

- Tham gia vào việc dự thảo các dự
án pháp luật về các vấn đề có liên quan tới tổ chức mình trước khi trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thông qua, ban hành.

- Phối hợp với các cơ quan nhà nước
trong việc soạn thảo và ban hành các văn bản chung có liên quan đến quyền và
nghĩa vụ của các thành viên trong tổ chức.

- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật
đối với các thành viên trong tổ chức và đối với nhân dân lao động.

- Tham gia kiểm tra, giám sát việc
thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và
công dân, người nước ngoài, người không quốc tịch.

- Ðại diện cho đoàn viên, hội viên
tham gia với cơ quan nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến
quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên.


--------------------------------------------


CÂU HỎI

1. Thế nào là tổ chức xã hội? Thông
qua các đặc điểm của tổ chức xã hội, hãy phân biệt chúng với cơ quan nhà nước?

2. Hãy phân loại các tổ chức xã hội
ở nước ta? Theo anh (chị), loại tổ chức xã hội nào nằm trong cơ cấu quyền lực
chính trị?

3. Nêu các quan hệ giữa tổ chức xã
hội và cơ quan nhà nước?




Bài 6 Blantop Bài 6 Blanprev
Bài 6 Blantoc
Bài 6 Blannext Bài 6 Blanhome
♥(¯`•▒»¦şǿċķ¦«▒• ´¯)♥
♥(¯`•▒»¦şǿċķ¦«▒• ´¯)♥
Admin

Tổng số bài gửi : 209
NHIỆT HUYẾT : 357
Cảm Ơn ! : 8
Join date : 15/02/2010
Age : 36
Đến từ : Đà Lạt

CASINO
BOYDALAT_90: 0

Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang


 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết